Người ta thường nói Nhật Bản là “một quốc đảo nhỏ, nghèo tài nguyên thiên nhiên”, điều này vô tình khiến số đông quên mất thực tế rằng Nhật Bản là một quần đảo được tạo thành từ hàng nghìn hòn đảo nhỏ khác. Người Nhật đôi khi coi đặc điểm dân tộc của họ là sự phản ánh của “tâm lý đảo quốc”, hướng tới ý thức trở thành một xã hội và văn hóa khép kín, biệt lập với những vùng biển xung quanh. Cho dù điều này có được phản ánh trong đặc điểm dân tộc hay không thì chắc chắn, “biển” đóng một vai trò to lớn trong văn hóa, lịch sử, xã hội, nghệ thuật và bản sắc Nhật Bản.
Mục lục
- Vị trí địa lý của biển Nhật Bản
- Biển và sự hình thành lịch sử sơ khai của Nhật Bản
- Mối quan hệ giao thương giữa Nhật Bản và phương Tây
- Nền công nghiệp đánh cá ở Nhật Bản
- Hải sản với biển Nhật Bản
- Không có nhiều cá ở bờ biển Nhật Bản
- Căng thẳng quốc tế, Tài nguyên và Công nghệ cùng tình trạng nước biển dâng sẽ có tác động ra sao trong tương lai?
Vị trí địa lý của biển Nhật Bản
Thái Bình Dương, Biển Okhotsk, Biển Nhật Bản và Biển Hoa Đông bao quanh Nhật Bản. Đường bờ biển của Nhật Bản trải dài hơn 29740.68km và không có điểm nào của đất liền Nhật Bản cách biển quá 93 dặm, vì vậy tài nguyên biển gần như có thể tiếp cận được ở hầu hết mọi nơi từ Nhật Bản. Quần đảo Nhật Bản kéo dài khoảng 2993.38 km từ cực nam Okinawa đến mũi phía bắc của Hokkaido, từ khoảng 26° đến 46° vĩ độ bắc: gần bằng phạm vi của các ngư trường lớn khác trên thế giới ở Bắc bán cầu, chẳng hạn như các ngư trường giữa mũi Baja California và cửa sông Columbia, giữa Miami và Nova Scotia, giữa Quần đảo Canary và Bordeaux.
Biển Nhật Bản có nguồn hải sản phong phú là do có các dòng biển nóng và lạnh gặp nhau. Bờ biển Thái Bình Dương bị cuốn theo dòng hải lưu ấm áp chảy về phía bắc của Nhật Bản, còn được gọi là Kuroshio (Dòng hải lưu đen), gặp dòng nước lạnh Okhotsk hoặc Oyashio (Dòng hải lưu Kurile) lạnh lẽo về phía nam gồm các vùng nước ấm và lạnh tạo ra ngư trường lớn. Ở phía bắc là vùng biển cận Bắc Cực của Bắc Thái Bình Dương và Biển Okhotsk, phần lớn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Nga. Phía tây là biển Nhật Bản, ngăn cách Nhật Bản và Hàn Quốc, quốc tế gọi là Biển Đông). Phía nam và phía tây của Kyushu là Biển Hoa Đông, một vùng nước nông, nguy hiểm, cận nhiệt đới.
Các hòn đảo tạo nên Okinawa tách biệt Thái Bình Dương với Biển Hoa Đông và kéo dài về phía nam từ Kyushu tới Đài Loan (đảo xa nhất là Yonaguni chỉ cách bờ biển Đài Loan 99.7 km). Và Quần đảo Ogasawara (còn được gọi là Quần đảo Bonin) nằm xa Thái Bình Dương, cách Tokyo khoảng 997.7 km về phía nam.
Quần đảo Nhật Bản bị ảnh hưởng bởi chu kỳ gió mùa hàng năm phổ biến ở phần lớn khu vực Đông, Đông Nam và Nam Á: một hệ thống thời tiết rộng lớn nối liền các vùng biển ở Tây Thái Bình Dương và Biển Hoa Đông với phần đất liền của lục địa Châu Á. Trong những tháng mùa hè, không khí ẩm, ấm tạo thành những cơn bão mạnh, theo hướng tây bắc đi qua Nhật Bản trước khi vào Châu Á. Trong những tháng mùa đông, không khí lạnh và khô quét từ Siberia về phía đông nam, mang theo hơi ẩm từ biển Nhật Bản và tuyết dày đặc xuống các ngọn núi ở miền trung Nhật Bản. Cả hai giai đoạn của chu kỳ gió mùa đều tạo điều kiện thuận lợi cho việc tưới tiêu rộng rãi cho nền nông nghiệp trồng lúa truyền thống của Nhật Bản, và kể cả trong thời hiện đại ngày nay, nó cũng có tác dụng lớn trong việc tạo ra một lượng lớn thủy điện cho việc cung cấp điện trên cả nước.
Biển và sự hình thành lịch sử sơ khai của Nhật Bản
Ngay từ thời xa xưa, tài nguyên biển đã được khai thác rộng rãi ở Nhật Bản. Vùng nước ven biển của Nhật Bản ước tính có hơn 2.000 loại cá khác nhau (với khoảng 10% tổng số loài nước mặn được biết đến), cùng hàng trăm loài động vật có vỏ và hầu hết các loài ăn được đều đóng một vai trò nào đó trong ẩm thực Nhật Bản. Các cuộc khai quật khảo cổ về các ụ vỏ sò cho thấy rằng trong thời kỳ Jomon – thời kỳ đồ đá mới ở Nhật (khoảng 10.000 – 300 trước công nguyên), nhiều loại cá và động vật có vỏ nước ngọt và nước mặn là nguồn thực phẩm chính trong chế độ ăn uống của những cư dân đầu tiên trên quần đảo Nhật Bản. Người Jomon đã sử dụng những kỹ thuật khá phức tạp để bẫy các loài lớn ở vùng biển rộng như cá heo và cá ngừ.
Nơi cư trú của con người ở Nhật Bản chắc chắn diễn ra bằng đường biển. Mặc dù nguồn gốc của những người đầu tiên sống ở quần đảo này là không chắc chắn, các yếu tố của văn hóa Nhật Bản trước và sơ kỳ cho thấy mối liên hệ với Đông Nam Á, Trung Quốc, Hàn Quốc, Siberia và Polynesia về các khía cạnh ngôn ngữ, tôn giáo và vũ trụ học, đồ gốm, thủy lợi, trồng lúa và kiểu nhà ở.
Những ghi chép lịch sử sớm nhất về Nhật Bản xuất hiện trong lịch sử các triều đại Trung Quốc từ thế kỷ III sau công nguyên trong mô tả về các sứ thần đi đường biển tới triều đình của Nữ hoàng Himiko. Và vào thế kỷ VI, vương quốc Paekche của Hàn Quốc đã giới thiệu Phật giáo tới triều đình Nhật Bản, mở ra con đường cho hoạt động thương mại, hành hương và ảnh hưởng văn hóa tích cực từ lục địa châu Á đã đưa Nhật Bản vào quỹ đạo của nền văn minh Đông Á cổ điển, mà trọng tâm ảnh hưởng là từ Trung Quốc. Các chuyến đi và thương mại hàng hải giữa Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc tiếp tục trong hơn một thiên niên kỷ, và mặc dù những người cai trị Tokugawa (1603 – 1868) đã làm giảm đáng kể mối liên hệ của Nhật Bản với các nước láng giềng châu Á vào thế kỷ XVIII, một số hoạt động thương mại chính thức (và không chính thức) vẫn tiếp tục với Trung Quốc và Hàn Quốc trong suốt thời kỳ Tokugawa.
Một sự kiện đáng chú ý trong lịch sử lâu dài của quan hệ Nhật Bản và Trung Quốc là âm mưu xâm lược của người Mông Cổ vào cuối thế kỷ XIII, khi hạm đội Mông Cổ bị tiêu diệt trong một cơn bão ngoài khơi bờ biển Kyushu bởi thứ được gọi là kamikaze (gió thần thánh), một thuật ngữ đã lấy lại được sự nổi bật trong Thế chiến thứ hai đề cập đến các phi công cảm tử Nhật Bản. Điều quan trọng cần nhận ra là cho đến thế kỷ XIX, sự tiếp xúc của nước ngoài với Nhật Bản đến từ phía nam hoặc phía tây thông qua Kyushu, cho dù có nguồn gốc từ Hàn Quốc, Trung Quốc, Đông Nam Á hay châu Âu xa xôi. Nói cách khác, Thái Bình Dương không phải là nơi giao thương, liên lạc hay tiếp xúc văn hóa. Nhật Bản hướng về phía tây chứ không phải hướng đông cho đến khi các tàu săn cá voi của phương Tây trong thương mại với Trung Quốc bắt đầu đi lại trên vùng biển Bắc Thái Bình Dương vào nửa đầu thế kỷ XIX.
Mối quan hệ giao thương giữa Nhật Bản và phương Tây
Vào thế kỷ XVI và XVII, Nhật Bản đã tiếp xúc với hai đế quốc hàng hải lớn ở châu Âu thời đó, là Bồ Đào Nha và Hà Lan. Những du khách châu Âu đầu tiên được ghi nhận đã đến Nhật Bản từ Ma Cao, Goa và các cảng khác của đế chế Bồ Đào Nha đang mở rộng vào năm 1542. Trong thế kỷ tiếp theo, những người châu Âu khác đã đến buôn bán và truyền đạo, và đến đầu thế kỷ XVII, các hoạt động truyền giáo đã dẫn đầu chế độ Tokugawa, trục xuất gần như toàn bộ người châu Âu và hạn chế sự tiếp xúc của Nhật Bản với những người nước ngoài châu Á khác. Cảng phía nam Nagasaki, ở Kyushu, tiếp tục nhận thuyền buôn từ Trung Quốc cho đến cuối thế kỷ XVII.
Trong số những người châu Âu, chỉ có người Hà Lan được phép ở lại, bị giam giữ trong một trạm buôn bán nhỏ trên hòn đảo nhỏ Deshima ở cảng Nagasaki. Trong hai thế kỷ tiếp theo, mỗi năm chỉ có một hoặc hai tàu buôn phương Tây (từ Công ty Đông Ấn Hà Lan) được phép đến thăm Deshima, và chỉ qua “cánh cổng” này, Nhật Bản mới duy trì được liên lạc và giao thương rất hạn chế với châu Âu. Trong thời kỳ thực thi lệnh cô lập này, ngư dân Nhật Bản cũng bị cấm ra nước ngoài, và các quy định của chính phủ về việc đóng tàu được cố ý thiết kế để khiến chúng không phù hợp cho việc di chuyển trên biển.
Trong nhiều thế kỷ khi Nhật Bản gần như đóng cửa với thế giới bên ngoài, chế độ Tokugawa cũng hạn chế việc đi lại của cá nhân trong nước. Địa hình đất đai đất gồ ghề của Nhật Bản dọc theo chuỗi đảo miền núi càng hạn chế việc đi lại trên đất liền. Tuy nhiên, hoạt động vận chuyển ven biển rộng khắp đã liên kết thủ đô Edo (nay là Tokyo), với nhiều vùng của Nhật Bản, đặc biệt là đến Osaka, trung tâm thương mại nội địa của Nhật Bản.
Sự cô lập của Nhật Bản đột ngột kết thúc vào năm 1853 với sự xuất hiện của Thiếu tướng Matthew Perry và cái gọi là “Những con tàu đen” của ông, khác với những con tàu nhỏ có đuôi thấp dễ bị ngập nước và bị trôi dạt theo dòng hải lưu chảy xiết. Các con tàu của Perry là những con tàu hơi nước chạy bằng than, chuyên vượt đại dương. Perry bố trí hạm đội nhỏ của mình ở vùng biển ngoài khơi Edo, đặt thành phố trong tầm bắn của các khẩu pháo trên tàu của ông cũng như đặt chúng ở vị trí cản trở các tuyến đường vận chuyển quan trọng đã kết nối thành phố với Osaka và các vùng khác của Nhật Bản.
Nhật Bản nhanh chóng nhận ra rằng việc mở các cảng của mình để tiếp xúc với nước ngoài là điều không thể lờ đi trong tương lai. Các hiệp ước với Hoa Kỳ và các cường quốc nước ngoài khác đã mở ra một số lượng hạn chế các cảng cho hoạt động ngoại thương, bao gồm Nagasaki, Kobe và Yokohama. Đặc biệt, Yokohama đã trở thành một thành phố bùng nổ, thu hút rất nhiều doanh nhân, nhà truyền giáo, nhà ngoại giao, nghệ sĩ giải trí và khách du lịch nước ngoài. Thông qua các hiệp ước này, Nhật Bản bắt đầu tìm hiểu chi tiết về các thể chế và công nghệ phương Tây, và chỉ trong vòng vài năm ngắn ngủi, chính phủ Nhật Bản đã chính thức tiến hành các nghiên cứu toàn diện về công nghệ, giáo dục và luật pháp nước ngoài, đặc biệt là sau cuộc Duy Tân Minh Trị năm 1868, kết thúc sự cai trị của triều đại Tokugawa và thành lập một chính phủ mới trên danh nghĩa do Hoàng đế Meiji đứng đầu.
Rất nhanh sau đó, chính phủ mới bắt tay vào việc mở rộng thuộc địa của mình. Năm 1872, Nhật Bản sáp nhập Vương quốc Ryukyu ở Okinawa. Và thông qua những chiến thắng trong các cuộc chiến tranh với Trung Quốc (1894 – 1895) và Nga (1904 – 1905), Nhật Bản đã giành được Đài Loan; quyền chính trị và thương mại ở nhiều vùng khác nhau của Trung Quốc, Mãn Châu và Hàn Quốc; và đảo phía bắc Sakhalin. Hải quân Nhật Bản, với cách thức hoạt động tương tự như Hải quân Anh, đã mở rộng nhanh chóng và đến những năm 1920 là một trong năm cường quốc hải quân trên thế giới đồng ý hạn chế vũ khí thông qua Hiệp ước Hải quân Washington (1922) và Hiệp ước Hải quân London (1930). Năm 1936, Nhật Bản từ bỏ cả hai hiệp ước, bắt đầu một cuộc chạy đua vũ trang hải quân.
Song song với sức mạnh hải quân của Nhật Bản, các công ty vận tải biển Nhật Bản đã phát triển và mở rộng các tuyến đường xuyên Thái Bình Dương cũng như khắp các vùng biển Đông và Nam Á. Tập đoàn Mitsubishi ngày nay có nguồn gốc từ một công ty vận tải biển được thành lập vào năm 1870, đúng thời điểm Nhật Bản đang mở cửa giao thương với nước ngoài.
Nền công nghiệp đánh cá ở Nhật Bản
Xuyên suốt chiều dài lịch sử, bờ biển Nhật Bản rải rác hàng ngàn làng chài nhỏ, thường tập trung đánh bắt cá ở vùng nước ven biển. Tuy nhiên, kể từ những năm 1960, nhiều khu vực đã phải đối mặt với những vấn đề về tình trạng suy giảm dân số ở nông thôn, ảnh hưởng đến nông thôn Nhật Bản, đồng thời thiết bị công nghệ cao ngày càng nhiều và chi phí của công nghệ đánh cá hiện đại đã khiến nhiều cộng đồng đánh cá truyền thống phá sản.
Những sự phát triển này bắt đầu vào đầu thế kỷ XX khi ngành đánh cá Nhật Bản bắt đầu công nghiệp hóa và các công ty đánh cá lớn hơn được thành lập để theo đuổi hoạt động đánh bắt cá ở vùng nước xa bờ, đầu tiên là ở Thái Bình Dương sau đó rộng ra hầu hết các nơi trên thế giới. Đến những năm 1920, các đội tàu đánh cá Nhật Bản đã đi khắp thế giới và cùng với sức mạnh hải quân và ngành vận tải biển quốc tế, trở thành trụ cột của cái mà nhà sử học William Tsutsui gọi là “đế quốc (dựa trên đại dương) của Nhật Bản”.
Vào đầu thế kỷ XX, các sản phẩm thủy sản trở thành mặt hàng quan trọng trong việc tạo ra ngoại hối. Đặc biệt, ngành thủy sản đóng hộp sản xuất cá hồi, tôm, cá ngừ và cá voi để xuất khẩu, từ đó cho phép nhập khẩu các mặt hàng công nghiệp như dầu, sắt và cao su. Chính phủ Nhật Bản hỗ trợ mở rộng và công nghiệp hóa ngành đánh bắt cá như một phần quan trọng trong mục tiêu xây dựng một quốc gia hùng mạnh và hiện đại. Chalmers Johnson, học giả hàng đầu về kinh tế chính trị Nhật Bản, coi nghề cá là một trong những yếu tố quan trọng trong việc hình thành “chính sách công nghiệp”.
Đến những năm 1930, Nhật Bản có đội tàu đánh cá lớn gấp đôi bất kỳ quốc gia nào khác và nguồn cá địa phương ngày càng cạn kiệt. Các tàu Nhật Bản phải đánh bắt ở các vùng biển xa bờ hơn, tới Vịnh Alaska, bờ biển Mexico, Biển Bengal và Biển Ả Rập.
Khi Nhật Bản bắt đầu quân sự hóa vào những năm 1930, các đội tàu đánh cá thương mại của nước này dần phải chuyển qua phục vụ chiến tranh. Sau khi cuộc hải chiến ở Thái Bình Dương bắt đầu một cách nghiêm túc, các tàu viễn dương bị quân đội Nhật Bản ép đưa vào sử dụng, những thanh niên có kỹ năng hàng hải được đưa vào Hải quân, và các nguyên liệu thô dùng trong đánh cá được phân chia theo và tái sử dụng cho nỗ lực chiến tranh. Đội tàu đánh cá của Nhật Bản đã bị phá hủy trong những năm cuối của Thế chiến thứ hai, và Nhật Bản với tư cách là một quốc gia gần như chết đói vào năm 1945, không chỉ vì thiếu hải sản mà còn vì mọi hình thức sản xuất lương thực của Nhật Bản đều bị thiệt hại nghiêm trọng.
May mắn thay, cơ sở hạ tầng trước chiến tranh hỗ trợ nghề cá quốc gia đã giúp việc khôi phục ngành này sau chiến tranh trở nên tương đối dễ dàng và đây là một trong những ngành đầu tiên được hồi sinh dưới thời Đồng minh chiếm đóng Nhật Bản (1945 – 1952). Cơ quan chiếm đóng cho phép hoạt động săn bắt cá voi ở vùng nước xa tiếp tục vào năm 1946 và đổ nguồn lực vào cơ sở hạ tầng hàng hải của Nhật Bản để giúp giảm bớt tình trạng nạn đói kéo dài sau sự tàn phá của thời chiến. Năm 1948, cơ quan thủy sản của chính phủ Nhật Bản được thành lập, sau này sáp nhập thành Bộ Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản (MAFF). Vào cuối thời kỳ chiếm đóng, năm 1952, Nhật Bản đã vượt quá mức sản lượng đánh bắt trước chiến tranh.
Với sự phát triển kinh tế của Nhật Bản sau năm 1955, ngành đánh cá tiếp tục mở rộng. Đến những năm 1960, việc đông lạnh nhanh trên các tàu nhà máy lớn đã trở nên phổ biến và các đội tàu đánh cá Nhật Bản được tổ chức tốt (thường là tàu nhà máy lớn với một số tàu đánh cá nhỏ hơn hoặc các tàu khác) đang săn cá ở mọi nơi trên thế giới. Khi sự thịnh vượng tăng lên, khẩu vị hải sản thơm ngon của Nhật Bản cũng tăng lên và nhập khẩu các sản phẩm thủy sản của Nhật Bản đã vượt quá xuất khẩu vào những năm 1970.
Mặc dù khẩu vị hải sản của người Nhật dường như không có bất cứ giới hạn nào nhưng nguồn cung của đại dương thì không. Với nhu cầu luôn vượt xa nguồn cung, nghề cá Nhật Bản lần đầu tiên bị cạn kiệt ở các vùng nước ven biển và các tàu cá phải đi đến các vùng biển xa hơn để đảm bảo sản lượng đánh bắt. Khi nhận thức về sự cạn kiệt nguồn lợi thủy sản tăng lên trên toàn thế giới, những quan niệm cũ về tự do biển đã được thay thế bởi ngày càng nhiều quy định quốc tế, và đến giữa những năm 1970, phong trào bao vây đại dương hoặc toàn cầu đã khuyến khích nhiều quốc gia tiến hành đánh dấu khu vực Đặc quyền kinh tế (EEZ) để bảo vệ vùng biển của họ khỏi các đội tàu đánh cá nước ngoài.
Những quy định này và nhiều quy định hàng hải khác đã được đưa vào các cuộc đàm phán dẫn đến Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS, 1973 – 1982, có hiệu lực từ năm 1994). UNCLOS mang lại lợi ích sâu sắc cho Nhật Bản, vì giới hạn 321.8 km xung quanh hàng nghìn hòn đảo xa xôi (bao gồm cả quyền khai thác khoáng sản dưới đáy biển) kéo dài trên một khu vực ngoài khơi có diện tích rộng gấp 12 lần tổng diện tích đất liền của nước này. Nhưng nó cũng báo hiệu sự kết thúc của việc đánh bắt cá xa bờ quy mô lớn của Nhật Bản, vì nhiều vùng đánh cá quan trọng nhất thế giới đều nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia khác.
Hải sản với biển Nhật Bản
Sự nổi lên của Nhật Bản trong bối cảnh kinh tế toàn cầu vào những năm 1970 với tư cách là điểm đến kinh doanh quốc tế, cùng với việc từ chối các món ăn thịnh soạn, nhiều thịt đỏ của châu Âu để chuyển sang các món ăn lành mạnh như cơm, cá, rau và sự hấp dẫn của khái niệm cao cấp, tính thẩm mỹ của thiết kế Nhật Bản, tất cả đã chuẩn bị cho thế giới một trào lưu ẩm thực mới – sushi. Và vì vậy, từ những gì mà các thế hệ người Mỹ trước đây coi là một đặc sản dân tộc kỳ lạ, gần như không ngon miệng, thì để nâng tầm ẩm thực độc đáo nhất, sushi không chỉ hấp dẫn mà còn trở nên phổ biến.
Hải sản tươi sống là một trong những đặc điểm nổi bật của ẩm thực Nhật Bản, và nếu muốn tìm bằng chứng về sự phong phú và đa dạng của cá, động vật có vỏ và các sản phẩm biển khác trong chế độ ăn hàng ngày của người Nhật, người ta chỉ cần nhìn qua các quầy hàng của khu chợ Tsukiji nổi tiếng. Chợ ở trung tâm Tokyo, chuyên bán buôn hải sản tươi sống và đông lạnh lớn nhất thế giới. Tsukiji đứng ở trung tâm của ngành công nghiệp đánh cá quốc tế trị giá hàng tỷ đô la, có công nghệ phức tạp và các cuộc đấu giá hàng ngày ở chợ phù hợp với nguồn cung quốc tế với nhu cầu truyền thống của ẩm thực Nhật Bản, ngày càng trở nên phức tạp hơn bởi sự thịnh vượng của Nhật Bản và sự cải tiến trong thị hiếu ẩm thực.
Tsukiji nằm ở trung tâm của ngành công nghiệp đánh cá quốc tế trị giá hàng tỷ đô la, có công nghệ phức tạp, và các cuộc đấu giá hàng ngày ở chợ, phù hợp với nguồn cung quốc tế và nhu cầu truyền thống của ẩm thực Nhật Bản. Những người ủng hộ thì khuyến khích quan điểm cho rằng Tsukiji là Tokyo no daidokoro – nhà bếp hay kho chứa thức ăn của Tokyo – vào thời kỳ đỉnh cao, trong kho chứa thức ăn này, số lượng hải sản với trị giá 5,7 tỷ USD đã được sang tay vào giữa những năm 1990.
Không có nhiều cá ở bờ biển Nhật Bản
Bất chấp việc sở hữu một vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn và đội tàu nổi hoạt động ở các đại dương xa xôi, ngành đánh cá Nhật Bản vẫn suy giảm mạnh kể từ những năm 1980 trở lại đây. Một yếu tố quan trọng là việc đánh bắt quá mức quốc tế bắt đầu trở nên rõ ràng trên khắp thế giới và ở nhiều loài hải sản khác nhau. Năng lực đánh bắt cá và nhu cầu ngày càng tăng ở Nhật Bản đã vượt quá nguồn cung. Quần thể của nhiều loài khác nhau đang bắt đầu suy giảm, nếu không muốn nói là cạn kiệt. Lệnh cấm đánh bắt cá voi quốc tế nhằm mục đích bảo tồn loài cá này khỏi nguy cơ tuyệt chủng.
Chất lượng và sự khan hiếm luôn đi đôi với nhau, và ít nhất cho đến ngày 11/3/2011, “thương hiệu” Nhật Bản vẫn được nhiều người coi là hàng đầu trong lĩnh vực thủy sản. Nhận thức đã thay đổi với sự tàn phá khoảng 10% đội tàu đánh cá Nhật Bản trong trận sóng thần sau trận động đất lớn ở miền Đông Nhật Bản và ô nhiễm hạt nhân do sự tan chảy của ba lò phản ứng tại Nhà máy hạt nhân Fukushima Dai-ichi trên bờ biển Tohoku.
Như đã đề cập, vùng nước ngoài khơi bờ biển Sanriku của Tohoku được làm giàu nhờ sự hòa trộn của dòng nước ấm chảy về phía bắc của dòng hải lưu Nhật Bản (Kuroshio) khi nó gặp dòng hải lưu lạnh giá, chảy về phía nam Okhotsk, hay hải lưu Kurile (Oyashio) tạo ra một trong những dòng hải lưu có ngư trường màu mỡ và dồi dào nhất thế giới. Kuroshio ấm áp xoáy cùng với Oyashio lạnh giá để tạo ra các dòng xoáy đại dương khổng lồ (gyres), nơi cá sinh sản và cũng là nơi tập trung các chất ô nhiễm hạt nhân. Mức độ ô nhiễm chính xác vẫn chưa rõ ràng và chính phủ Nhật Bản vẫn chưa sẵn sàng cung cấp thông tin chi tiết và phân tích chuyên sâu về thảm họa. Theo những được công khai thì tình trạng ô nhiễm từ Fukushima hiện chỉ đứng thứ hai sau thảm họa nhà máy hạt nhân năm 1986 tại Chernobyl ở Ukraine. Trong khi Chernobyl được cho là đã được ngăn chặn và đang được lắp một nắp mới để tiếp tục niêm phong bên trong, thì bức xạ từ Fukushima vẫn tiếp tục ảnh hưởng, và tại thời điểm này, có rất ít kiến thức cụ thể về tác động của ô nhiễm hạt nhân đối với quần thể cá ngoài khơi bờ biển Tohoku.
Căng thẳng quốc tế, Tài nguyên và Công nghệ cùng tình trạng nước biển dâng sẽ có tác động ra sao trong tương lai?
Ngay cả khi ngoài khơi bờ biển Sanriku sẽ tiếp tục chịu ô nhiễm trong nhiều năm tới, Nhật Bản vẫn kiểm soát một khu vực đánh cá hàng đầu thế giới, và giá trị của sự giàu có đó càng được thể hiện rõ ràng hơn qua các vấn đề hiện tại về chủ quyền đảo gây tranh cãi giữa Nhật Bản và các nước láng giềng. Ngay cả những mảnh đất nhỏ không có người ở cũng trở thành điểm tranh chấp chính giữa Nhật Bản và Trung Quốc (quần đảo Senkaku/Điếu Ngư ở Biển Hoa Đông), giữa Nhật Bản và Hàn Quốc (đảo Takeshima/Dokdo (Đảo Liancourt) ở Biển Nhật Bản/Biển Đông), giữa Nhật Bản và Nga (trên bốn đảo nhỏ ở cực nam của chuỗi Kurile giữa Hokkaido và Bán đảo Kamchatka).
Tuy nhiên, nguồn tài nguyên thủy sản có thể quan trọng nhưng chúng chỉ là một phần nhỏ trong các cuộc tranh luận quốc tế này. Các câu hỏi về chủ nghĩa dân tộc và niềm tự hào dân tộc cũng như việc tiếp cận các quyền khai thác khoáng sản dưới đáy biển còn quan trọng hơn bản chất quyền đánh bắt cá. 1,73 triệu dặm vuông trong giới hạn 200 dặm xung quanh hàng nghìn hòn đảo xa xôi của Nhật Bản bao gồm vô số tài nguyên chỉ mới bắt đầu được khai thác. Ngoài tiềm năng về thủy sản, các công nghệ mới sẽ mở đường cho việc khai thác khoáng sản từ vùng nước biển sâu, các tuabin nước nổi khổng lồ được hình thành từ việc sản xuất điện, các nguồn năng lượng địa nhiệt và gió lớn chưa được khai thác có thể được tìm thấy hoặc đặt ở vùng biển Nhật Bản, tiềm năng và lợi nhuận từ việc khử mặn nước biển tinh chế là không thể tính toán được.
Trong tương lai, hiện tượng nóng lên toàn cầu và sự tan chảy của chỏm băng ở Nam Cực hiện được ước tính là không thể ngăn cản được. Mối đe dọa nước biển dâng là nghiêm trọng đối với nhiều quốc gia và Nhật Bản – với dân số, ngành công nghiệp và cơ sở hạ tầng quan trọng khác chủ yếu tập trung ở các vùng ven biển trũng – chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu toàn cầu.
Dù đúng hay sai thì tất cả các thông tin này đều mang tính dự báo để Nhật Bản có sự chuẩn bị tốt hơn cho việc bảo vệ nguồn tài nguyên biển này. Tìm hiểu về văn hoá Nhật Bản, biển Nhật Bản chắc chắn phải luôn song hành với việc xem xét những ảnh hưởng đáng kể trong lịch sử và đương đại của biển đối với đời sống con người trên quần đảo này.
Ý kiến