Nhật Bản đã trải qua sự sụt giảm lớn nhất về số lượng công dân vào năm ngoái, với tất cả 47 tỉnh lần đầu tiên chứng kiến sự sụt giảm đồng loạt. Tuy nhiên, số lượng cư dân không phải người Nhật đã tăng lên mức cao kỷ lục, gây ra một số tổn thất về dân số, theo dữ liệu của chính phủ công bố vào mới đây nhất. Đây chắc chắn sẽ là vấn đề lớn mà chính phủ cần giải quyết đối với dân số Nhật Bản.
Mục lục
Lần đầu tiên số lượng người dân Nhật Bản giảm xuống ở tất cả 47 tỉnh do dân số nước ngoài tăng
Dữ liệu mới từ Bộ Nội vụ cho thấy rằng dân số công dân Nhật Bản tính đến ngày 1 tháng 1 là khoảng 122,42 triệu người, giảm hơn 800.000 người so với một năm trước và là lần giảm thứ 14 liên tiếp so với cùng kỳ năm ngoái. Yu Korekawa, Giám đốc Viện Nghiên cứu Dân số và An sinh Xã hội Quốc gia Nhật Bản (IPSS), cho biết ông không ngạc nhiên về sự sụt giảm liên tục, nhưng lưu ý rằng điều quan trọng là phải chú ý đến sự gia tăng số người nước ngoài của Nhật Bản.
Theo đó, ông Yu chia sẻ: “Tôi nghĩ điều quan trọng là phải nhận ra rằng tác động của cư dân nước ngoài đã thực sự đạt đến một điểm đáng kể. Đó là một quá trình tự nhiên đối với những người từ các khu vực đang có dân số tăng trưởng chuyển đến những nơi khác đang bị suy giảm dân số. “Tuy nhiên, nhìn vào tình hình hiện tại, rõ ràng là các nước phát triển ở khắp mọi nơi không áp dụng các chính sách cởi mở đối với người nhập cư, điều này tạo ra nhiều thách thức.”
Dân số người nước ngoài của Nhật Bản đã tăng 10,7% vào năm ngoái 2022, và đạt mức 2,99 triệu người. Đây thực sự là mức tăng đầu tiên trong ba năm sau khi chính phủ Nhật Bản nới lỏng các hạn chế do đại dịch COVID-19. Cư dân từ Trung Quốc, Việt Nam và Hàn Quốc tạo thành nhóm công dân nước ngoài lớn nhất tính đến cuối tháng 12, chiếm hơn một nửa tổng số cư dân nước ngoài, theo thống kê từ Cơ quan Dịch vụ Nhập cư.
Mặc dù Nhật Bản không chấp nhận nhập cư như một cách để chống lại sự suy giảm dân số, nhưng chính phủ đã tìm cách tuyển dụng và giữ chân nguồn nhân lực nước ngoài tốt hơn, cũng như cải thiện sự chung sống giữa người nước ngoài và người Nhật Bản. Một minh chứng cho điều này là Bộ Tư pháp hiện đang thực hiện các kế hoạch loại bỏ và thiết kế lại chương trình đào tạo thực tập sinh kỹ năng gây tranh cãi, đồng thời mở rộng và cải thiện chương trình đào tạo công nhân lành nghề cụ thể, với hy vọng thu hút nhiều lao động nước ngoài muốn ở lại đất nước làm việc trong lâu dài.
Đối với tình trạng dân số Nhật Bản giảm, chính quyền của Thủ tướng Fumio Kishida đang lên kế hoạch tung ra một gói chính sách “chưa từng có” để hỗ trợ các gia đình nhằm khuyến khích nhiều người sinh con hơn. Theo dữ liệu mới được chính phủ công bố, số ca sinh của công dân Nhật Bản năm ngoái là 771.801, mức thấp nhất kể từ khi bắt đầu cuộc khảo sát vào năm 1979. Nguyên nhân chủ yếu là do các lý do kinh tế và xã hội dẫn đến tỷ lệ sinh thấp của nước này.
Yoshinori Hiroi, giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu Kokoro của Đại học Kyoto, cho biết: Việc cân bằng giữa công việc và chăm sóc con cái ở Nhật Bản thật sự rất khó khăn, đồng thời trích dẫn thực tế về thời gian làm việc kéo dài và sự hỗ trợ kém cho phụ nữ tham gia lực lượng lao động là một số nguyên nhân chính dẫn đến việc dân số của quốc gia này liên tục sụt giảm. Việc làm và điều kiện sống của thế hệ trẻ không ổn định khiến họ khó hình dung việc lập gia đình và nuôi dạy con cái sau này sẽ ra sao nên ngần ngại trong việc đó hơn.
Trả lời cuộc khảo sát nhân khẩu học, Chánh văn phòng Nội các Hirokazu Matsuno nhắc lại ý định của chính phủ trong việc thực hiện các chính sách để chống lại các vấn đề về tỷ lệ sinh thấp và suy giảm dân số ở Nhật Bản. Ông nói với các phóng viên: “Để đảm bảo lực lượng lao động ổn định, chúng tôi sẽ tích cực thúc đẩy cải cách phong cách làm việc để khuyến khích việc làm, đặc biệt là cho phụ nữ và người lớn tuổi, đồng thời thực hiện cải cách thị trường lao động, xem xét quan điểm của những người đang làm việc để phát huy hết tiềm năng của họ”.
Nhấn mạnh thêm mức độ nghiêm trọng của vấn đề, cuộc khảo sát của chính phủ cho thấy rằng tất cả các tỉnh đều chứng kiến số lượng công dân Nhật Bản hiện nay đều suy giảm, với Quận Okinawa trải qua lần giảm dân số đầu tiên kể từ khi được trả lại cho Nhật Bản từ sự kiểm soát của Hoa Kỳ vào năm 1972.
Khi nói đến tổng dân số bao gồm cả người nước ngoài, Tokyo là quận duy nhất có sự gia tăng – 46.732 người trong tổng số 13,84 triệu người. Dân số người nước ngoài ở thủ đô tăng từ mức 63.231 lên 581.112. Vì số lượng người nước ngoài có thể sẽ tiếp tục có xu hướng tăng lên trong những năm tới, Korekawa cho biết sự mất cân bằng trong khu vực là một điểm quan trọng cần xem xét để tránh sự tập trung của những người mới đến ở Tokyo.
“Khi xem xét việc giảm dân số ở các tỉnh trong tương lai, điều quan trọng là phải suy nghĩ về cách Nhật Bản sẽ tiếp cận việc tiếp nhận người nước ngoài,” ông nói.
Cư dân nước ngoài ở Nhật Bản đạt mức gần 3 triệu khi dân số Nhật Bản đang có chiều hướng giảm kỷ lục
1. Lần đầu tiên số lượng công dân Nhật Bản giảm ở tất cả các khu vực
Số lượng công dân Nhật Bản đã giảm lần đầu tiên ở mỗi tỉnh, nhưng số lượng cư dân nước ngoài đã lên tới gần 3 triệu người, giúp củng cố các cộng đồng, thông tin từ dữ liệu mới của chính phủ cho thấy. Dân số có quốc tịch Nhật Bản là 122,4 triệu người tính đến ngày 1 tháng 1, giảm 800.523 người so với một năm trước đó do dữ liệu giảm nhiều nhất kể từ năm 1968, Bộ Nội vụ và Truyền thông báo cáo vào lần gần nhất gần đây.
Số lượng công dân giảm ở tất cả 47 quận, giảm đầu tiên ở Okinawa, nơi có tỷ lệ sinh tương đối cao. Trong khi đó, số lượng người nước ngoài có thẻ cư trú tăng 289.498 trên toàn quốc, đạt 2,99 triệu. Con số này tăng lần đầu tiên sau ba năm khi du lịch xuyên biên giới phục hồi sau đại dịch COVID-19.
2. Sự gia tăng cư dân nước ngoài đạt mức cao nhất trong đánh giá dữ liệu từ năm 2013
Mỗi quận của Nhật Bản đều ghi nhận sự gia tăng của cư dân nước ngoài. Tokyo là nơi có số lượng cư dân là người nước ngoài như vậy lớn nhất và có mức tăng cao nhất – tăng từ 63.231 lên tổng số 581.112. Trong khi số lượng công dân Nhật Bản ở Tokyo giảm, việc bổ sung cư dân nước ngoài đã nâng dân số chung của cả tỉnh lên mức cao hơn.
Tiếp theo là Osaka với mức tăng 24.963 cư dân nước ngoài, xếp ngay sau đó là Aichi, quê hương của Nagoya, với 19.326. Trong số 1.747 đô thị của Nhật Bản, 1.499 – hay 85,8% – là số lượng người nước ngoài đã được tính thêm vào tổng số người dân của quốc gia này. Người nước ngoài sẽ chiếm 10,2% dân số Nhật Bản vào năm 2067, theo ước tính của Viện nghiên cứu dân số và an sinh xã hội quốc gia. Người dân nước ngoài sẽ trở thành một phần lớn hơn của cuộc sống không chỉ ở các thành phố lớn mà còn ở các vùng nông thôn.
Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản ước tính, chính phủ cần thu hút 6,74 triệu lao động sinh ra ở nước ngoài vào năm 2040 để đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, gần gấp bốn lần con số trong nước vào năm 2020. Trong số các công dân Nhật Bản, 59,03% ở độ tuổi 15 – 64, được coi là dân số trong độ tuổi lao động. Mặc dù tỷ lệ này đã tăng lần đầu tiên kể từ khi dữ liệu đó bắt đầu được lưu giữ vào năm 1994, nhưng tỷ lệ này vẫn ở mức dưới 60%. Số lượng trẻ em Nhật Bản dưới 15 tuổi đang giảm, đồng nghĩa với việc sẽ có ít lao động tương lai hơn.
Các thành phố lớn có xu hướng được hưởng lợi từ việc di cư trong nước tại Nhật Bản. Nhưng một số cộng đồng xa xôi hẻo lánh đã có thể phát triển dân số của họ bằng cách cung cấp các cơ hội làm việc và các tiện nghi khác.
3. Tình hình dân số Nhật Bản ở một số các tỉnh lẻ
Shimukappu, một ngôi làng nghỉ mát trượt tuyết với khoảng 1.400 người trên hòn đảo phía bắc Hokkaido, đã tăng dân số lên 13,4%, mức tăng phần trăm lớn nhất trong số các đô thị của Nhật Bản. Người nước ngoài làm việc tại hai khu nghỉ dưỡng là động lực chính cho sự tăng trưởng này. Dân số nước ngoài đã đạt 321, tăng hơn gấp đôi so với năm ngoái, khi ngành du lịch đang phát triển mạnh hơn so với trước đây.
Kutchan và Niseko, hai thị trấn nghỉ dưỡng mùa đông khác của Hokkaido, đã tăng dân số lần lượt là 5,7% và 2,9%, với mức tăng được ghi nhận là do dòng người lao động và cư dân nước ngoài đổ vào. Một số nơi, chẳng hạn như thành phố Nonoichi ở quận trung tâm của Ishikawa, đã thu hút nhiều cư dân hơn bằng cách cung cấp nhà ở cho các gia đình trẻ, cũng như hỗ trợ chăm sóc trẻ em.
Kikuyo, thị trấn ở quận Kumamoto của Kyushu, nơi Công ty Sản xuất Chất bán dẫn Đài Loan đang xây dựng một nhà máy mới, chỉ có 6.300 người e ngại có thể nâng cấp lên thành phố, một tên gọi đòi hỏi ít nhất 50.000 cư dân.
Nhập cư là giải pháp tốt nhất cho vấn đề dân số của Nhật Bản
1. Thiếu lao động là khó khăn chính trong việc tăng trưởng kinh tế
Vào khoảng thời gian đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Nhật Bản có khoảng 124 triệu người với nền kinh tế bong bóng của nước này bùng nổ. Nhưng trong khoảng thời gian này, độ tuổi trung bình của dân số đã tăng 11 tuổi lên 48, trong khi dân số trong độ tuổi lao động giảm từ 86 triệu xuống 74,3 triệu. Trong khi đó, doanh số bán ô tô mới hàng năm đã giảm từ 7,5 triệu xuống còn 4,2 triệu, khi doanh số bán hàng tại cửa hàng bách hóa giảm một nửa xuống còn 5 nghìn tỷ yên (36,67 tỷ USD).
Mặc dù người ta đã chú ý nhiều đến việc tăng tỷ lệ sinh của Nhật Bản để duy trì cơ sở kinh tế của đất nước, nhưng việc tập trung vào nhập cư có thể khả thi hơn. Nhật Bản rõ ràng có sức hút đối với nhiều người nước ngoài. Lượt khách du lịch hàng năm đã tăng từ 7 triệu vào năm 2009 lên 31 triệu vào năm 2019, năm cuối cùng trước khi COVID-19 tấn công. Các nhà hàng, quán bar, khách sạn và nhà khai thác vận tải đều được hưởng lợi từ dòng tiền này.
Người nhập cư sẽ có tác động kinh tế thậm chí còn lớn hơn. Nếu Nhật Bản chấp nhận 1 triệu người mới nhập cảnh vào đất nước mỗi năm, điều này có thể bù đắp hoàn toàn sự suy giảm dân số tự nhiên do số người chết, hiện đang tăng gần gấp đôi tốc độ sinh. So sánh Nhật Bản với Đức, quốc gia có quy mô dân số tương tự và cũng yêu cầu đăng ký hộ khẩu. Độ tuổi trung bình ở Đức là 45, cao nhất châu Âu. Nhưng trong khi người nước ngoài chỉ chiếm 2,2% dân số đã đăng ký của Nhật Bản vào năm 2019, thì tỷ lệ này ở Đức là 13,1%.
Chiến lược tăng trưởng hiện tại của chính phủ Nhật Bản tập trung vào thúc đẩy khoa học và công nghệ, tăng cường đầu tư mạo hiểm, hỗ trợ số hóa và giới thiệu công nghệ xanh. Nhưng bằng cách chỉ tập trung vào khía cạnh cung cấp của nền kinh tế, chiến lược này đã không tính đến việc thiếu cầu của Nhật Bản.
Các công ty được thành lập có khách hàng và phương thức sản xuất riêng trong khi các công ty mới phải bắt đầu lại từ đầu để huy động vốn, thuê nhân viên, mua sản phẩm và tìm kiếm khách hàng. Nền kinh tế Nhật Bản không tăng trưởng vì thiếu các công ty khởi nghiệp thành công. Các công ty khởi nghiệp không thể thành công vì nền kinh tế không phát triển do nhu cầu thiếu hụt.
2. Nhập cư cũng là động lực cho sự tăng trưởng kinh tế đất nước
Ở Nhật Bản, không phải là không thể đi từ học tập với tư cách là một sinh viên để có được quốc tịch Nhật, nhưng bộ máy hành chính và những trở ngại khác liên quan khá khó khăn để vượt qua.
Đẩy mạnh nhập cư sẽ đòi hỏi phải giải quyết các rào cản hiện đang khiến hầu hết người nước ngoài khó ở lại, nhưng đây là điều cần thiết vì nhiều công ty Nhật Bản, ngoài những công ty danh tiếng nhất, đang gặp khó khăn trong việc tuyển dụng những người ở độ tuổi 20 và 30. Cần có một lộ trình để cho phép những người trẻ tuổi có thị thực làm việc trong kỳ nghỉ, hiện có thời hạn không quá một năm, được phép ở lại Nhật Bản lâu hơn.
Hệ thống thực tập sinh kỹ năng đang giúp giải quyết tình trạng thiếu lao động của Nhật Bản ở một mức độ nào đó dưới hình thức “đào tạo”. Vấn đề là thực tập sinh phải trở về nước sau ba đến năm năm thực tập. Điều này khiến các công ty chủ nhà phải trả giá đắt vì vào thời điểm các thực tập sinh phải về nước, họ thường đã quen với việc làm việc trong môi trường văn hóa và ngôn ngữ Nhật Bản.
Phải thừa nhận một thực tế là Nhật Bản không thể hoạt động nếu không có lao động nước ngoài. Người nước ngoài trở thành thường trú nhân cũng sẽ trở thành người tiêu dùng. Điều này có thể giúp duy trì ngành công nghiệp ô tô của Nhật Bản, hiện đang phải vật lộn với thị trường nội địa đang bị thu hẹp, cũng như ngành nhà ở, vốn đang phải đối mặt với một thị trường đã có khoảng 9 triệu ngôi nhà bỏ trống.
Cơ quan Dịch vụ Nhập cư Nhật Bản nên noi gương Cơ quan Du lịch Nhật Bản, cơ quan đã đặt mục tiêu cơ bản là thu hút 60 triệu du khách nước ngoài mỗi năm, bằng cách đặt mục tiêu nhập cư. Một hệ thống cấp quyền cư trú dài hạn cho những người nước ngoài giàu có mua nhà sẽ giúp giảm bớt tình trạng dư thừa nhà ở của Nhật Bản. Việc hỗ trợ thị trường nhà đất theo cách này sẽ bảo toàn giá trị tài sản cho những người già ở địa phương, giảm bớt gánh nặng tài chính sau khi họ nghỉ hưu.
Nhập cư từng gắn liền với việc người nghèo di chuyển đến những nơi giàu có hơn để tìm kiếm cơ hội tốt hơn. Nhưng nguồn nhân lực đang trở thành một nguồn tài nguyên ngày càng có giá trị trên toàn thế giới và các quốc gia đang cạnh tranh để thu hút một số loại người nhập cư. Nhật Bản có những lợi thế khác biệt trong cuộc đua này, bao gồm sự khoan dung tôn giáo; chi phí sinh hoạt thấp; thức ăn ngon; nhà ở rẻ tiền phong phú; an toàn công cộng cao; sự đa dạng văn hóa; trình độ học vấn cao; chi phí y tế và giáo dục thấp; các chính sách thân thiện đối với việc nuôi dạy trẻ em và tính dễ bị tổn thương tương đối thấp trước các tác động của biến đổi khí hậu.
Để tăng số lượng cư dân nước ngoài tại Nhật Bản lên 1 triệu người mỗi năm, Nhật Bản sẽ cần nỗ lực mạnh mẽ và có thái độ chào đón, giống như cách họ đã làm với ngành du lịch. Cũng giống như du lịch, nhập cư có thể mang lại cho nền kinh tế Nhật Bản một sự thúc đẩy cần thiết. Nhưng điều này chỉ có thể thực hiện được khi có sự thay đổi trong nhận thức cộng đồng và một chiến lược quốc gia. Đã đến lúc Nhật Bản phải đưa ra một số quyết định khó khăn.
Ý kiến