Ngày nay khi vấn đề về bảo vệ môi trường trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới thì việc tìm nguồn năng lượng tái tạo thay thế cho các loại nhiên liệu hoá thạch là việc vô cùng khẩn trương và cấp thiết. Và điện sinh khối (biomass power) chính là câu trả lời cho bài toán môi trường hóc búa này. Vậy hãy cùng JapanBiz tìm hiểu về mô hình điện sinh khối tại Nhật Bản và xem lượng tiêu thụ điện sinh khối của quốc gia này nhé.
Mục lục
Tình hình ngành điện sinh khối tại Nhật Bản
1.Mục tiêu
Năng lượng tái tạo đang là chủ đề nhận được nhiều sự quan tâm bên cạnh quá trình chuyển đổi sang sử dụng năng lượng sạch. Và Nhật Bản cũng là một trong những quốc gia đã cam kết chống lại biến đổi khí hậu vào tháng 10/2020, tuyên bố mục tiêu đưa lượng khí carbon về mức trung bình vào năm 2050. Vào tháng 4/2021, Nhật Bản cũng công bố lượng khí thải nhà kính đã giảm tới 46% so với năm 2013.
Đứng trước mục tiêu này, năng lượng tái tạo được coi là yếu tố không thể thiếu trong quá trình nỗ lực giảm thiểu lượng khí thải của Nhật Bản. Chính sách năng lượng của Nhật đã thay đổi đáng kể sau trận động đất lớn ở phía Đông Nhật Bản năm 2011 và sự cố hạt nhân ở Fukushima. Điển hình là kế hoạch Năng lượng Chiến lược lần thứ 5 được thông qua vào tháng 7/2018 lần đầu tiên đề cập và mô tả năng lượng tái tạo là nguồn năng lượng chính. Chính phủ Nhật thông báo có kế hoạch phát triển nguồn năng lượng này lên mức 22-24% trong cơ cấu sản xuất điện trong năm tài chính 2030, trong đó nâng mức tiêu thụ điện sinh khối tại Nhật chiếm khoảng 3,7%-4,6%.
Mục tiêu này được đánh giá là phù hợp với kế hoạch dài hạn về việc điều chỉnh mức cung cầu năng lượng vào năm 2015. Trong đó sinh khối và gỗ nói chung được coi là nguyên liệu chính để tạo nên điện sinh khối.
(*): Một số cơ sở sinh khối được giới thiệu theo Tiêu chuẩn danh mục đầu tư tái tạo năm 2003 đã không được chuyển giao đến nguồn cấp dữ liệu về cơ chế giá điện
2. Các loại sinh khối:
Để lượng tiêu thụ năng lượng tái tạo, bao gồm cả điện sinh khối tại Nhật tăng cao, chương trình Tiêu chuẩn danh mục đầu tư tái tạo (RPS) đã được triển khai vào năm 2003, theo sau là giá bán điện năng (FIT) vào 2012.
Mặc dù chương trình RPS không đạt hiệu quả như kỳ vọng nhưng có thể nói mức thuế ưu đãi của cơ chế FIT đã giúp công suất điện sinh khối tăng gấp đôi trong 7 năm.
Theo chương trình FIT, nhiên liệu sinh khối có thể được chia thành 6 loại:
- Gỗ nói chung: phế liệu xưởng cưa, gỗ nhập khẩu như viên và dăm, vỏ hạt cọ (PKS) và thân cọ
- Sinh khối lỏng: dầu cọ
- Phế liệu gỗ trong xây dựng, công nghiệp: vụn gỗ, phế liệu gỗ rơi ra trong xây dựng
- Gỗ không sử dụng: gỗ xẻ trong nước
- Phế liệu và các loại sinh khối khác: cành cây, giấy, thức ăn thừa, dầu ăn, chất thải khác,..
- Khí sinh học: khí mê-tan có nguồn gốc từ bùn thải, phân và chất thải thực phẩm
Trong khi các nguồn sinh khối như gỗ phế thải từ xây dựng, hay các loại phế thải khác khá rẻ tiền giúp tiết kiệm chi phí thì theo RPS, gỗ chưa sử dụng và các loại gỗ nói chung lại có mức thuế khá cao.
3. Chính sách mới
Giới hạn công suất mới được phê duyệt gần đây đã bị đình trệ do một số biện pháp nghiêm ngặt nhằm làm giảm những công suất không dùng đến được nêu ra trong đạo luật FIT được sửa đổi từ năm 2017. Ví dụ: các nhà phát triển được yêu cầu phải ký kết thoả thuận kết nối mạng lưới với một công ty dịch vụ công cộng để được phê duyệt FIT. Đồng thời cũng phải nộp một bản kế hoạch kinh doanh để có thể đánh giá tính khả thi và bền vững. Do sự kiểm soát chặt chẽ của đạo luật mới mà công suất điện sinh khối được phê duyệt trung bình đạt khoảng 160MW trong 2 năm 2018 và 2019.
Một sự thay đổi gần đây trong cơ chế FIT là các dự án mới về đồng đốt sinh khối với than và gỗ chưa sử dụng, các loại gỗ chung và phế liệu gỗ trong xây dựng không còn đủ điều kiện để có thể xin FIT từ năm 2019. Lí do là vì dữ liệu thu thập được sau khi thực hiện cơ chế giá FIT cho thấy chi phí phát điện của các nhà máy điện đồng đốt sinh khối với than thấp hơn so với chi phí ước tính của các nhà máy điện sinh khối thông thường, xét về chi phí vốn, vận hành, bảo trì cũng như nguyên liệu. Do đó, các nhà máy đồng đốt sinh khối với than không đủ điều kiện để nhận hỗ trợ của chương trình FIT vì những nhà máy này vẫn có được lợi nhuận dù không có gói hỗ trợ FIT.
Đến tháng 3/2020, công suất điện sinh khối tại Nhật được phê duyệt theo cơ chế FIT đã đạt 10,830MW, vượt qua công suất mục tiêu năm 2030 là 6,020-7,280MW trong khi công suất vận hành thực tế chỉ là 4,500MW. Nói cách khác thì tuy công suất đã được phê duyệt nhưng có tới 6,330MW công suất chưa được sử dụng. Đây chính là các công suất không dùng đến.
Cơ chế hỗ trợ điện sinh khối tại Nhật Bản
1. Cơ chế FIT là gì
Cơ chế FIT là biện pháp hỗ trợ chính để tăng sinh khối, cũng như năng lượng tái tạo khác trong quá trình sản xuất năng lượng. Điện sinh khối được phê duyệt theo cơ chế FIT được mua với giá cố định trong 20 năm
2. Biểu giá FIT của Nhật Bản:
Biểu giá FIT của Nhật Bản sẽ được biểu thị theo bảng dưới đây (đơn vị: ¥/kWh)
(Nguồn: Bộ Tài Chính Nhật Bản)
Hầu như mức thuế quan vẫn được duy trì ổn định kể từ khi bắt đầu thực hiện chính sách này. Tuy chỉ có nguyên liệu gỗ chưa sử dụng trong nước với công suất dưới 2MW là tăng từ 32¥/kWh lên 40¥/kWh trong năm 2015 nhằm khuyến khích thành lập các nhà máy điện sinh khối quy mô nhỏ.
Gỗ chưa sử dụng trong nước và gỗ nói chung sẽ được coi là phế liệu gỗ trong xây dựng nếu không có các tài liệu cần thiết để chứng minh rằng các nguyên liệu này có nguồn gốc hợp pháp và đã được xử lý đúng cách. Với mục tiêu dài hạn đặt ra cho năng lượng sinh khối là có thể có hiệu quả kinh tế mà không cần bất kỳ một hỗ trợ tài chính nào. Tuy nhiên dường như mục tiêu này vẫn còn là quá khó do chi phí phát điện vẫn còn cao.
Hiện nay, cơ cấu FIT đang được xem xét để đưa năng lượng tái tạo trở thành nguồn năng lượng chính theo Đạo luật thiết lập khả năng phục hồi nguồn cung cấp năng lượng đã được Quốc hội thông qua vào tháng 6/2020 và chính thức có hiệu lực từ 4/2022. Đạo luật bao gồm các sửa đổi một phần của Đạo luật về năng lượng tái tạo (Đạo luật FIT), Đạo luật kinh doanh điện và Đạo luật về tập đoàn quốc gia dầu khí và kim loại Nhật Bản. Nhật đặt mục tiêu phát triển một kế hoạch mới cung cấp các ưu đãi đầu tư, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc hội nhập thị trường năng lượng tái tạo mang tên Feedin Premium đã được áp dụng từ 2022. Theo kế hoạch FIP mới, các nhà sản xuất điện tái tạo được khuyến khích bán điện trực tiếp tại thị trường bán buôn hoặc giao dịch qua quầy qua đó sẽ đảm bảo được mức giá ưu đãi nhất có thể khi so với giá FIT.
3. Chương trình Feed-in-Premium (FIP)
Phạm vi của chương trình FIP sẽ là các dự án năng lượng mặt trời, địa nhiệt, thuỷ điện quy mô lớn với công suất lớn hơn 1MW, các dự án sinh khối có công suất lớn hơn 10MW và các dự án sinh khối lỏng với công suất lớn hơn 50kWh.
Trước đây, dự án sinh khối không được coi là năng lượng tái tạo trong chương trình do chi phí cao. Tuy nhiên, do có lợi thế là tính ổn định và linh hoạt mà năng lượng sinh khối cung cấp cho lưới điện đã cho thấy các nhà máy điện năng lượng sinh khối, nhất là những nhà máy có quy mô lớn phù hợp với sơ đồ FIP. Từ 4/2022, các dự án snh khối có công suất lớn hơn 10MW sẽ tuân theo quy chế FIP và từ 2023 thì các dự án có công suất lớn hơn 1MW cũng sẽ tuân theo FIP.
Mặt khác có chế FIT sẽ được duy trì đối với nguồn điện sử dụng tại địa phương. Các dự sinh khối có công suất dưới 10MW và các dự án thuỷ điện và địa nhiệt có công suất dưới 1MW sẽ phải đáp ứng một số điều kiện nhất định để có thể áp dụng cơ chế FIT từ năm 2022. Cơ chế FIT dành cho các loại hình tự tiêu dùng hoặc dành cho cộng đồng nên yêu cầu lượng điện năng tạo ra phải được tiêu thụ ít nhất 30% cho mục đích sử dụng của chính họ hoặc của cộng đồng. Đối với loại hình nhiệt điện kết hợp, ngoài việc sử dụng nhiệt ra thì cũng phải tiêu thụ ít nhất 10% điện năng.
Loại hình này cần đáp ứng 3 điều kiện để có thể sử dụng cơ chế FIT:
- Việc sử dụng năng lượng được tạo ra đã được chính quyền địa phương đồng ý
- Dự án do chính quyền địa phương quản lý/ tài trợ
- Năng lượng tạo ra được cung cấp cho một đại lý bán lẻ theo chỉ định của chính quyền địa phương
4. Hệ thống đấu giá
Hệ thống đấu giá đã được giới thiệu theo cơ chế FIT sửa đổi vào năm 2017. Các nhà máy điện sinh khối tại Nhật sử dụng gỗ thông thường có công suất lớn hơn 10MW và sinh khối lỏng phải được đấu giá với cơ chế định giá trả theo giá thầu.
Cho đến nay Nhật Bản đã tiến hành 3 cuộc đấu thầu sinh khối. Phiên đấu giá đầu tiên năm 2018 thu hút sự quan tâm vì lượng đăng ký vượt quá lượng đấu thầu cho cả 2 hạng mục. Tuy nhiên, các yêu cầu về trình độ đã thu hẹp số lượng thầu và chỉ một giá thầu trong mỗi danh mục thực sự được tham gia đấu giá. Sau hai phiên đấu giá không thành công, phiên đấu giá thứ 3 được tổ chức vào năm 2020 cuối cùng cũng đã có người thắng thầu. Giá đấu thầu là 18.5¥/kWh thấp hơn so với mức giá FIT đối với gỗ thường là 24¥/kWh. Tuy nhiên, công suất đấu thầu được là 1.92MW chỉ bằng 1,6% với công suất được đấu giá là 120MW.
Ghi chú: ( ) là số lần trả giá
Hơn nữa, các bộ trên toàn chính phủ đã khuyến khích sử dụng sinh khối vì nhiều lợi ích khác nhau. Ví dụ, việc sử dụng sinh khối được kỳ vọng sẽ hồi sinh ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, giảm phát thải khí nhà kính và xây dựng một xã hội dựa trên tái chế. Do đó, Đạo luật cơ bản năm 2009 về thúc đẩy sử dụng sinh khối quy định xây dựng Kế hoạch cơ bản về sử dụng sinh khối để hỗ trợ toàn diện và chiến lược, thành lập Hội đồng xúc tiến sử dụng sinh khối điều phối các biện pháp giữa bảy bộ có liên quan và thực hiện các biện pháp tài chính hoặc quy định để khuyến khích sử dụng sinh khối.
5. Kế hoạch Cơ Bản về sử dụng sinh khối tại Nhật
Kế hoạch Cơ bản về sử dụng sinh khối, ban đầu được đưa ra vào năm 2010 và được sửa đổi vào năm 2016, làm rõ định hướng chính sách về các biện pháp tạo ra doanh nghiệp do cộng đồng lãnh đạo để giúp đỡ các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, đồng thời mang lại cơ hội sinh lời cho cộng đồng. Kế hoạch cơ bản cũng đặt ra mục tiêu quốc gia và đề cập đến nghiên cứu và phát triển công nghệ liên quan đến việc sử dụng sinh khối. Sinh khối gỗ được xác định là một trong những lĩnh vực chiến lược ưu tiên trong Chiến lược Thương mại hóa Sinh khối được Hội đồng Xúc tiến Sử dụng Sinh khối thông qua vào năm 2012, dẫn đến mục tiêu cho một hệ thống tích hợp để thu thập và vận chuyển gỗ chưa được sử dụng và sử dụng sinh khối gỗ tại các nhà máy điện một cách có hệ thống.
Sự hỗ trợ giữa các chính phủ đã được cung cấp để tăng cường sử dụng sinh khối, nghĩa là trợ cấp, ưu đãi thuế và các chương trình tài chính. Việc sử dụng sinh khối do chính phủ tạo điều kiện không chỉ bao gồm sinh khối gỗ mà còn bao gồm các loại sinh khối khác nhau như bùn thải và chất thải thực phẩm. Báo cáo này tập trung vào các biện pháp về sinh khối gỗ, được trình bày dưới đây.
(Trợ cấp: Việc sử dụng sinh khối được trợ cấp trong các giai đoạn khác nhau bao gồm lập kế hoạch, nghiên cứu, phát triển và trình diễn công nghệ và phát triển cơ sở vật chất.)
Phối cảnh cân đối cung cầu viên nén gỗ và cơ cấu chi phí tại Nhật Bản
Theo một cuộc khảo sát được thực hiện bởi Hiệp hội Năng lượng sinh học gỗ Nhật Bản trong năm tài chính (từ tháng 4 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019) với 55 máy phát điện sinh khối, hơn một nửa nhiên liệu để phát điện sinh khối tại Nhật là sinh khối gỗ được sản xuất trong nước hiện nay ở Nhật Bản về trọng lượng
Khi chuyển kết quả khảo sát sang dạng năng lượng, người ta ước tính rằng, trong sản xuất điện sinh khối sử dụng sinh khối gỗ (‘Gỗ chưa sử dụng’, ‘Gỗ nói chung’ và ‘Chất thải gỗ xây dựng’), khoảng 30% nhiên liệu đầu vào được đáp ứng bằng nhiên liệu sinh khối nhập khẩu
Theo thống kê thương mại của Nhật Bản, nhập khẩu viên nén gỗ của nước này đã tăng khoảng 16 lần từ năm 2014 đến năm 2019. Việt Nam và Canada là những nhà cung cấp nhập khẩu viên nén gỗ lớn nhất của Nhật Bản. Mặt khác, sản xuất viên nén gỗ trong nước gần như giữ nguyên so với cùng kỳ.
Các ứng dụng của viên nén gỗ ở Nhật Bản bao gồm sản xuất điện, nồi hơi, bếp lò, sử dụng nông nghiệp và các ứng dụng khác. Mặc dù số liệu thống kê thương mại không nêu rõ việc sử dụng viên nén gỗ nhập khẩu, nhưng theo Hiệp hội viên nén gỗ Nhật Bản (JPA), hầu hết được sử dụng để sản xuất điện.
Giá viên nén gỗ trong nước để phát điện có phạm vi rộng. Theo khảo sát các nhà sản xuất viên nén gỗ trong nước do JPA thực hiện vào năm 2020, giá trung bình của viên nén gỗ trong nước để phát điện là khoảng 14.000 ~ 29.000¥/tấn, trong khi theo Thống kê Thương mại Nhật Bản, giá trung bình, bảo hiểm và cước vận chuyển (CIF) của viên nén gỗ nhập khẩu là khoảng 18.000¥/tấn vào năm 2020.
Theo JPA, hầu hết các nhà sản xuất viên nén gỗ trong nước đều có quy mô nhỏ, góp phần vào giá cao hơn của họ. Bên cạnh đó, ngay cả khi nhu cầu sử dụng viên nén gỗ để phát điện ngày càng tăng, sản xuất trong nước vẫn ít được mở rộng quy mô. Viên nén gỗ nhập khẩu sẽ tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong sản xuất điện sinh khối tại Nhật trong tương lai.
Tính đến tháng 9 năm 2020, tổng công suất lắp đặt của sản xuất điện sinh khối là khoảng 3,859MW,trong đó công suất phát điện sinh khối gỗ là 2,702MW. Người ta ước tính rằng để đạt được hỗn hợp phát điện năm 2030, sản lượng điện sinh khối gỗ cần được tăng lên khoảng 4.061 ~ 5.321 MW. Giả sử hệ số công suất của sản xuất điện sinh khối là 50%, hiệu suất nhiệt là 32% và 30% lượng nhiên liệu đầu vào sinh khối đến từ viên nén gỗ nhập khẩu, đến năm 2030, nhập khẩu viên nén gỗ dự kiến là 3,831 ~ 5,019 triệu tấn để đáp ứng nhu cầu nhiên liệu cho sản xuất điện sinh khối, gấp khoảng 2,4 ~ 3,1 lần viên nén gỗ nhập khẩu vào năm 2019
Những vấn đề và thách thức
1. Chi phí
Vấn đề thách thức đầu tiên là chi phí phát điện vẫn ở mức cao. Nhìn chung, thuế suất theo chương trình FIT ở Nhật Bản cao hơn so với các nước châu Âu. Thuế suất cho một nhà máy điện sinh khối có công suất 5 MW và sử dụng viên nén gỗ là 24¥/kWh ở Nhật Bản, trong khi trường hợp tương đương ở Đức là 12,7¥/kWh vào năm 2016 (METI, 2020a).
Không giống như các công nghệ tái tạo khác như năng lượng mặt trời và năng lượng gió, các nhà máy điện sinh khối cần nhiên liệu để vận hành. Tại Nhật Bản, chi phí nhiên liệu chiếm 68% chi phí phát điện sinh khối (METI, 2020b). Do đó, cần phải giảm chi phí nhiên liệu, điều này cuối cùng sẽ góp phần giảm chi phí phát điện sinh khối. Đặc biệt, việc giảm chi phí là rất quan trọng để các bên liên quan của nhà máy điện sinh khối duy trì hoạt động kinh doanh sau khi hỗ trợ tài chính theo chương trình FIT kết thúc sau 20 năm.
Để đối phó với mối quan tâm này, điều quan trọng là tạo ra một môi trường tạo điều kiện giảm chi phí sinh khối gỗ được thu hoạch trong nước. Sẽ có hiệu quả nếu hệ thống xử lý và vận chuyển được điều chỉnh hoặc thiết kế để gỗ mỏng và tàn dư rừng sẽ được sử dụng hiệu quả làm tài nguyên nhiên liệu (METI, 2020b). Lâm nghiệp hiện nay tập trung vào việc trồng và quản lý cây lá kim, chủ yếu làm vật liệu xây dựng. Điều này chỉ ra rằng sinh khối gỗ để sử dụng năng lượng đứng thứ hai sau khi sản xuất vật liệu xây dựng là mục đích chính của lâm nghiệp. Chắc chắn, việc cung cấp sinh khối gỗ cho sử dụng năng lượng bị ảnh hưởng bởi nhu cầu về vật liệu xây dựng. Do đó, cần có một hệ thống được tổ chức tốt để thu thập và phân phối sinh khối gỗ để lấy năng lượng.
Một cách tiếp cận khả thi khác là trồng cây lá rộng và phát triển cây một cách nhanh chóng. Mặc dù cây lá rộng không phù hợp để trở thành vật liệu xây dựng vì chúng có xu hướng uốn cong trong quá trình phát triển, nhưng chúng rất phong phú ở Nhật Bản. Ưu điểm của cây là phát triển nhanh cũng cần được nhấn mạnh vì chúng có thể tiết kiệm thời gian và chi phí do thời gian tăng trưởng ngắn. Nếu chúng được trồng chung ở một nơi nhất định để sử dụng riêng cho năng lượng, hiệu quả sẽ được nâng cao trong việc thu thập và vận chuyển chúng. Hơn nữa, năng suất sẽ được cải thiện vì quá trình tỉa thưa sẽ không cần thiết.
2. Nguồn cung ổn định
Vấn đề thứ hai là đảm bảo một nguồn cung cấp ổn định. Dựa trên Kế hoạch Cơ bản về Rừng và Lâm nghiệp, sự sẵn có của sinh khối gỗ trong nước được xác định, Dự thảo Kế hoạch cơ bản để sửa đổi trong năm tài chính 2021 ước tính rằng nhu cầu về gỗ nhiên liệu, tức là viên nén gỗ, dăm gỗ, củi và than củi, sẽ tương đương với 15 triệu m3 log tương đương trong năm tài chính 2025 và tương đương 16 triệu m3 log vào năm 2030, trong khi lượng gỗ nhiên liệu sẵn có trong nước sẽ tương đương 8 triệu m3 gỗ và tương đương 9 triệu m3 log trong các năm tương ứng. Các sản phẩm gỗ nhập khẩu dự kiến sẽ lấp đầy khoảng trống giữa chúng. Do đó, điều cần thiết là phải đảm bảo cả tài nguyên sinh khối trong nước và nhập khẩu đáp ứng vận hành các nhà máy điện sinh khối và tăng năng lượng sinh khối theo kế hoạch.
Lượng gỗ cần thiết | Lượng gỗ có sẵn trong nước | Công suất tương đương | |
2019 | 10 triệu m3 | 7 triệu m3 | 280MW |
2025 | 15 triệu m3 | 8 triệu m3 | 320MW |
2030 | 16 triệu m3 | 9 triệu m3 | 360MW |
3. Tính bền vững
Vấn đề thách thức thứ ba là tính bền vững. Chương trình FIT phê duyệt sinh khối gỗ với điều kiện gỗ được thu hoạch bền vững và hợp pháp. Tính bền vững của nhiên liệu được đảm bảo dựa trên Đạo luật Lâm nghiệp đối với nhiên liệu trong nước và chương trình bền vững của bên thứ ba đối với nhiên liệu nhập khẩu. Gỗ nói chung cần tuân thủ Hướng dẫn xác minh sự tuân thủ và bền vững của gỗ và sản phẩm gỗ do Cơ quan Lâm nghiệp ban hành năm 2006. Ngoài ra, để tính bền vững đủ điều kiện, Hướng dẫn yêu cầu sinh khối gỗ được khai thác từ các khu rừng được xác nhận bởi các chương trình chứng nhận rừng như Hội đồng quản lý rừng, Chương trình chứng thực đề án chứng chỉ rừng và Hội đồng hệ sinh thái xanh bền vững. Hơn nữa, sinh khối gỗ cần được xử lý đúng cách và không được trộn lẫn với các sản phẩm không được chứng nhận khác thông qua toàn bộ chuỗi cung ứng, được xác minh bởi hệ thống chuỗi hành trình.
Vào tháng 4 năm 2019, Nhóm Công tác Bền vững Sinh khối dưới sự bảo trợ của Tiểu ban Năng lượng Mới và Tái tạo đã được thành lập để kiểm tra các tiêu chuẩn kỹ thuật và các khía cạnh của tính bền vững. Hiện tại, gỗ nói chung bao gồm dư lượng xưởng cưa, viên nén và dăm gỗ, PKS và thân cọ theo sơ đồ FIT. Tuy nhiên, có khả năng sẽ cần các loại nhiên liệu sinh khối khác nhau để đáp ứng nhu cầu, điều này sẽ đòi hỏi phải kiểm tra xem chúng có hợp lệ cho chương trình FIT hay không. Cùng với sự gia tăng mạnh mẽ của sinh khối gỗ nhập khẩu và dư lượng nông nghiệp như PKS, cũng có một mối quan tâm ngày càng tăng về tính bền vững của chúng. Đáp lại, Nhóm công tác đã khởi xướng việc xem xét các tiêu chí đánh giá bền vững hiện tại theo chương trình FIT từ năm 2020.
Bảng dưới đây liệt kê các tiêu chí về tính bền vững của nguyên liệu sinh khối được đánh giá là đủ điều kiện cho chương trình FIT. Nhóm Công tác Bền vững Sinh khối đã điều tra các chủ đề mới là tình thế tiến thoái lưỡng nan giữa thực phẩm và nhiên liệu, đánh giá vòng đời của khí nhà kính và chương trình bền vững mới của bên thứ ba như các tiêu chí đánh giá mới sẽ được bổ sung. Trong khi chúng vẫn đang được xem xét, Nhãn vàng xanh cho PKS và thân cây cọ đã được thêm vào chương trình bền vững được chứng nhận cùng với Dầu cọ tái tạo trên bền vững cho cây cọ dầu và Hội nghị bàn tròn về vật liệu sinh học bền vững cho PKS và thân cây cọ.
Kết luận
Sản xuất điện sinh khối đã tăng lên ở Nhật Bản, chủ yếu được hỗ trợ bởi chương trình FIT. Vì công suất điện sinh khối được phê duyệt theo sơ đồ FIT đã vượt mục tiêu năm 2030, nên việc các cơ sở trước khi vận hành bắt đầu hoạt động để đạt được mục tiêu chỉ là vấn đề thời gian.
Nếu nhiều nhà máy điện sinh khối bắt đầu hoạt động đến năm 2030, nhu cầu nhiên liệu để vận hành chắc chắn sẽ tăng lên. Hiện nay, hơn một nửa số nhiên liệu để sản xuất điện sinh khối là sinh khối gỗ được sản xuất trong nước nhưng sản xuất sinh khối gỗ trong nước vẫn còn nhiều hạn chế, điều này đã thúc đẩy nhập khẩu viên nén gỗ trong những năm gần đây. Do đó, nhiều khả năng viên nén gỗ nhập khẩu sẽ đóng một vai trò quan trọng để đáp ứng nhu cầu nhiên liệu cho sản xuất điện sinh khối trong tương lai.
Tuy nhiên, nhiên liệu nhập khẩu để sản xuất điện sinh khối tại Nhật có liên quan đến các vấn đề mà quốc gia cần giải quyết. Giá của nhiên liệu nhập khẩu cần phải cạnh tranh vì chi phí nhiên liệu cho sản xuất điện sinh khối là chìa khóa để giảm chi phí phát điện vẫn còn cao ở Nhật Bản. Ngoài ra, đánh giá tính bền vững và vòng đời của khí nhà kính đối với nhiên liệu nhập khẩu sẽ được xem xét kỹ lưỡng, dựa trên động lực ngày càng tăng cho Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững trên toàn thế giới. Nhật Bản chắc chắn sẽ theo đuổi các con đường để đảm bảo nhiên liệu bền vững và giá cả phải chăng để thực hiện các cam kết.
Nguồn: Dịch từ Biomass Power Generation and Wood Pellets in Japan (Chapter 4)
Ý kiến